Hangul Day (한글날 - ngày mùng 9 tháng 10 hàng năm) có nguồn gốc và ý nghĩa quan trọng với người dân Hàn Quốc như thế nào?

05/10/2022

Việc tạo ra hệ thống Hangeul (còn được gọi là chữ Hàn Quốc ngày nay), và công bố Huấn dân chính âm ngày 9 tháng 10 năm 1946, nó như một sự kiện văn học, ngôn ngữ và văn hóa, đến nay được coi là hơn 560 năm tuổi và là 1 trong những sự kiện lớn nhất Hàn Quốc. Chính bởi vì hệ thông văn tự độc lập, triết lí sáng tạo nó được giải thích và quán triệt một cách rộng rãi đã góp phần to lớn và việc phát triển văn hóa, giáo dục ý thức và lọng tự hào dân tộc hàn quốc từ giữa thế kì thứ 15 cho đến nay.

 

Nguồn gốc và lịch sử hình thành chữ viết Hangul

 

Giống như nhiều ngôn ngữ của các dân tộc khác ở Đông Á, tiếng Hàn không có chữ viết riêng trong một thời gian dài, nhiều thập kỷ. Tất cả các hình thức giao tiếp đều bằng miệng. Một ngôn ngữ không có chữ viết sẽ thiếu đi những tiêu chuẩn của một xã hội văn minh. Và ngôn ngữ không thực hiện đầy đủ các chức năng quan trọng và đa dạng của nó, chẳng hạn như chức năng công cụ giao tiếp, tư duy, lưu trữ thông tin, hoặc chức năng thơ ca tạo ra văn hóa viết. Vào thời điểm đó, Hàn Quốc cũng như Việt Nam và Nhật Bản đều phải mượn chữ Hán làm ngôn ngữ chính thức của quốc gia-dân tộc.
Bối cảnh ra đời chữ viết Hangul là vào thế kỉ 15 thuộc đời vua thứ 4 của triều đại Choson, triều đại mà xã hội phong kiến Hàn quốc đạt đến đỉnh cao của sự phát triển. Dưới triều đại này người dân Hàn quốc đã có niều thành tự sáng tạo to lớn trong các ngành khoa học như địa lí, lịch sử, thiên văn, âm nhạc, ngôn ngữ, pháp luật, vv Nhiều tác phẩm đã trở thành cổ điển do viện Danh nhân hay còn gọi là viện Tập hiền tổ chức biên soạn, trước tác do vua Sejong(1418-1450) đứng đầu. 

 

Để việc sáng tạo có cơ sở khoa học và thực tiễn, nhà vua đã cử một nhóm học giả sang Trung Quốc và các nước lân cận nghiên cứu, trong khi những người khác đi khảo sát địa phương. Sau khi thu thập và phân tích các nét trên một điểm đánh dấu để thử nghiệm, cố gắng viết các kiểu chữ viết tay khác nhau, kết hợp và kết hợp các nét theo cách mà ngày nay chúng ta gọi là modul, để tạo thành một hệ thống chữ viết gọi là Hangeul. Vua Sejong phụ trách toàn bộ quá trình. Cuối cùng, vào năm 1446, Hangeul chính thức được công bố cùng với Nhà thờ Chính thống của Nhân dân, một cuốn sách được hiểu một cách dự kiến ​​là tiếng nói phù hợp để truyền đạt giáo lý cho mọi người, và cuốn sách này đã giải thích, hướng dẫn các phương pháp và nguyên tắc để tạo ra hệ thống. Mọi người cần một hệ thống chữ viết để hiểu và sử dụng.


Ngôn ngữ của các dân tộc có cách phát âm riêng, nhưng thiếu chữ viết nên ta mượn chữ Hán để đáp ứng nhu cầu trên. Đó là lý do tại sao chúng tôi làm theo thói quen phát âm của mọi người và tạo ra những từ của riêng mình dễ đọc và dễ nhớ. Nhưng vua Sejong khẳng định rằng "một công việc khó khăn nhưng lại có ý nghĩa lớn như vậy, nếu chúng ta không làm thì ai sẽ làm?".

 

Vào dịp công bố chính thức chữ viết Hangul vua có lời nói đầu giải thích cho động cơ ông làm việc này và một phụ tá là Chong Il Ji viết lời giải thích quá trình sáng tạo hệ thống chữ viết, thuyết phục những người phản đối khuyến dụ nhân dân học theo. Có thể thấy vào thời bấy giờ mà có vị vua nào có ý thức dân tộc, khoa học và nghĩ về dân như vậy thì thật đáng nể trọng và tôn vinh xứng đáng.

 


Ý nghĩa to lớn của chữ 
Hangul đối với khoa học và người dân Hàn Quốc

 

Ý nghĩa khoa học độc đáo và văn háo to lớn của Hangul và Huấn dân chính âm còn thể hiện ở triết lí sáng tạo sâu sắc. Hệ thống bảng chữ công bố đầu tiên là 27 con chữ (nay dùng 24), bao gồm 7 kí hiệu ghi nguyên âm, 17 kí hiệu ghi phụ âm, 4 kí hiệu phụ. Con số gần ba chục con chữ này dùng để ghi toàn bộ hệ thống (nguyên âm, phụ âm) lại được tổ hợp chỉ từ một số nét chữ gốc ít hơn, đơn giản hơn, và các nét chữ này lại được liên hội biểu trưng hoá từ cơ sở thực tiễn và triết học phương Đông. 

 

Những ký hiệu gốc có một bộ phần mô phỏng tượng trưng cho cơ quan phát âm và phương thức cấu âm, ví như các nét chữ ghi phụ âm. Trong phụ âm lại phân biệt âm đầu và phụ âm cuối trong âm tiết. Các nét chữ phụ âm này lại liên kết tổ hợp để tạo ra kí hiệu phụ âm phức. Sự kết hợp, tổ hợp với nét gốc phụ âm được liên hội, giải thích theo triết lí thái cực và âm dương ngũ hành trong Chu dịch. Ba kí hiệu gốc nguyên âm chỉ là 3 nét chữ đơn giản, tạm gọi là 3 nét chấm (.) ngang (-) sổ (|). Ba nét gốc lại có thể tổ hợp theo một số cách (phái sinh) để tạo thành các chữ nguyên âm phức. Ba nét gốc được liên hội giải thích theo thuyết tam tài, thiện địa nhân hợp nhất. 

 

Có thể nhận thấy rằng những hình dung giải thích biểu trưng hoá gắn với nguyên lí triết học và thực tiễn trong Hangul và Huấn dân chính âm thật thâm thúy và sâu sắc. Nhìn nhận toàn bộ sáng tạo có thể rút ra nhiều hệ luận, nhưng theo tôi có một sợi chỉ đỏ quán xuyến mà ta có thể thấy là: Sejong và các tác giả sáng tạo đã làm ra một công cụ hữu hiệu (chữ viết) để ghi lại thứ tài sản vô cùng quí giá của dân tộc (là ngôn ngữ) và dùng nó như một công cụ có hiệu lực vô song để thống nhất phát triển văn hoá, văn minh dân tộc với bản lĩnh, bản sắc riêng, với động cơ và triết lí sáng tạo vô cùng sâu sắc. Giá trị sáng tạo của Hangul và Huấn dân chính âm thật xứng đáng để Tổ chức văn hoá giái dục của LHQ (UNESCO) lập ra giải thưởng vua Sejong (1989) và công nhận là Di sản tư liệu văn tự thế giới (Momory of the world 1997).

 

Chữ viết Hangul ra đời đã đóng một vai trò to lớn trong phát triển giáo dục và văn hoá dân tộc Hàn. Cũng giống như chữ Nôm ở nước ta một thời rồi chữ Quốc ngữ tiếp theo, chữ Hangul ở xứ Hàn cũng nhiều lúc bị lâm vào hoàn cảnh thăng trầm, coi nhẹ. Do ảnh hưởng của chữ Hán và văn hoá Hán còn mạnh, nên một số triều đại về sau ít dùng, ít đề cao chữ viết dân tộc. Đặc biệt dưới thời kì bị đô hộ bởi thế lực nước ngoài thì nó bị cấm dùng cấm học tập, truyền bá. Tuy nhiên như một giá trị sáng tạo có cội rễ từ bản sắc dân tộc, chữ viết Hangul và quan điểm tiến bộ của Huấn dân chính âm vẫn sống, vẫn phát huy, chống lại được mọi ảnh hưởng, dù là cường quốc văn hoá, văn tự phương Tây. Vai trò to lớn của nó trong giáo dục, văn hoá có nhiều mặt, song nổi bật hơn cả theo tôi là một số điểm lớn sau đây:

 

Một là, do tính ưu việt dễ học, dễ nhớ của nó nên được nhiều người dân học theo. Chữ viết Hangul còn gọi là chữ viết buổi sáng, bởi có thể học thuộc nó trong một ngày, một buổi. Có người còn gọi nó là chữ viết vĩ đại. Hiệu quả thực tế khi được phổ biến là giúp cho gần 100% dân chúng thoát nạn mù chữ trong một thời gian ngắn.

 

Hai là, từ khi nó ra đời, với sự nêu gương sáng tác của vua Sejong và các cận thận, các hiền tài thức giả, nó đã mở đầu công cuộc xây dựng và phát triện một nền văn học quốc ngữ. Nền văn học này cũng có nhiều tác phẩm đi vào cổ điển như truyện Xuân Hương và có nhiều tác phẩm của nhiều nhà văn nhà thơ tiêu biểu khác. Không những thế những sáng tác dân gian, phônclo cũng được sưu tập, cố định lại bằng văn bản Hangul, nhiều học giả sáng tạo các lĩnh vực địa lí, lịch sử, pháp luật cũng thể hiện kết quả, tư tưởng của mình bằng chữ Hangul. Có thể nói một nền khoa học nhân văn phong phú, sâu sắc đã được sáng tạo, lưu giữ bằng thứ văn tự này.

 

Ba là, đặc điểm có vai trò to lớn trong văn hoá giáo dục là ở giá trị tự thân của sáng tạo này (Hangul và Huấn dân chính âm). Nó là biểu hiện của ý thức và sự sáng tạo độc đáo dân tộc. Vì vậy khi nó tồn tại, hành chức luôn luôn là niềm khích lệ, niềm tự hào dân tộc chính đáng, là sức mạnh chống lại sự đồng hoá của ngoại bang. Giá trị tự hào dân tộc, sức mạnh dân tộc gắn kết với chữ Hangul và Huấn dân chính âm đối với nhân dân Korea thật là to lớn.

 

 

 

Khi học tiếng Hàn, các bạn sẽ được học bảng chữ cái tiếng Hàn trước tiên, còn gọi là chữ Hangeul (Hangeul hay Hangul - 한글). Chữ Hangeul là hệ thống chữ cái của tiếng Hàn được vua Sejong (세종대왕) và các học giả vương triều Joseon (Triều Tiên – triều đại phong kiến cuối cùng của Hàn Quốc) sáng tạo ra vào thế kỷ 15. Vua Sejong (Sejong The great, 세종대왕 - Thế Tông Đại vương) là vị vua thứ 4 của triều đại Triều Tiên - triều đại phong kiến cuối cùng của Hàn Quốc (1392-1897). Ông trị vì 32 năm và được biết đến như là vị vua vĩ đại nhất trong lịch sử Hàn Quốc.

 

Về mặt lịch sử, trước khi chữ Hangeul ra đời, thì người dân Hàn Quốc đã phải sử dụng hệ thống chữ Hán (한자 - Hanja) của người Trung Quốc. Do sự hạn chế của chữ Hán (số lượng chữ quá nhiều, cấu trúc phức tạp, khó học) dẫn đến việc bất tiện trong việc sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày. Do đó, vua Sejong đã sáng tạo ra một hệ thống ký tự dễ học, phù hợp với âm đọc của tiếng Hàn, gọi đó là Hangeul. Vua Sejong cùng với các học giả trong Điện Tập Hiền (집현전) đã nghiên cứu để sáng tạo ra Hangeul từ năm 1443, sau đó đến năm 1446 thì bảng chữ cái tiếng Hàn được chính thức công bố.

 

Và để tưởng nhớ công lao to lớn của vua Sejong, ngày 9/10 hàng năm được lấy làm ngày Hangeul – thường được biết đến với tên gọi Hangul Day (한글날) để tưởng nhớ công ơn sáng tạo ra chữ Hàn của vua Sejong. Ngày Hangul Day được tổ chức tại cả Hàn Quốc và Bắc Hàn. Tuy nhiên, với sức ảnh hưởng của Hàn Quốc trên trường quốc tế, các tổ chức của chính phủ Hàn Quốc có mặt tại nước ngoài như Viện Văn hóa Hàn Quốc (한국문화원), quỹ Korean Foundation đã hợp tác với các cơ quan chức năng và các trường đại học, cao đẳng, THPT, v.v... để cùng tổ chức ngày Hangul tại nhiều nước trên thế giới. Việt Nam ở khu vực Đông Nam Á với số lượng người nói tiếng Hàn đông đảo luôn là một trong những quốc gia tích cực nhất tham gia các event được tổ chức trong khuôn khổ lễ hội Hangul Day.

 

Vào năm 1997, Hangeul (bảng chữ cái tiếng Hàn) đã chính thức được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới. Hangeul không đơn giản chỉ là một hệ thống chữ viết, mà đó còn là niềm tự hào của toàn bộ dân tộc Triều Tiên nói chung. Ở thủ đô Seoul của Hàn Quốc, có tượng đài vua Sejong khổng lồ, được đặt ngay quảng trường Gwanghwamun (광화문). Bức tượng được biết đến là nặng 20 tấn. Bức tượng này là địa điểm viếng thăm rất nổi tiếng ở thủ đô Seoul (Hàn Quốc), và dưới chân bức tượng là một bảo tàng rất hiện đại về vua Sejong và Hangeul. 

 

Chữ Hangeul khi mới sáng tạo ra, được gọi là Huấn dân chính âm (훈민정음), có nghĩa là dạy dân âm đúng. Chữ Hangeul là hệ thống chữ biểu âm, được chia thành nguyên âm và phụ âm. Vào thời kỳ ban đầu, Hangeul có 17 phụ âm và 17 nguyên âm. Đến ngày nay, hệ thống chữ Hangeul được cấu thành bởi 40 ký tự, trong đó có 19 phụ âm và 21 nguyên âm. Các phụ âm như ㆆ (여린히읗, 된이응), ㆁ (옛이응, 꼭지이응), ㅿ(반시옷,ㆍ(아래아) hiện nay đã không còn được sử dụng nữa. Phụ âm của chữ Hangeul được tạo lập theo nguyên lý tượng hình và nguyên lý thêm nét. Thực tế chỉ có 5 phụ âm cơ bản (ㄱ, ㄴ, ㅁ, ㅅ, ㅇ) được tạo thành dựa trên việc quan sát hình dáng của cơ quan phát âm. 12 phụ âm còn lại được hình thành bằng cách thêm nét vào các phụ âm cơ bản tùy theo độ mạnh nhẹ của âm.

 

Nguyên âm được tạo thành trên cơ sở tam tài: thiên, địa, nhân và nguyên lý âm dương. Các nguyên âm như ‘∙’, ‘ㅡ’, ‘ㅣ’ được coi là nguyên âm cơ bản, còn các nguyên âm khác được hình thành bằng cách kết hợp từ 3 nguyên âm nói trên. Trong đó, ‘∙’ được coi là hình tròn của trời (하늘), ‘ㅡ’ là hình bằng phẳng của đất (땅), ‘ㅣ’ là dáng đứng của con người (사람). 

 

Cùng Trung tâm Du học Hàn Quốc ACES khám phá các chủ đề liên quan đến tiếng Hàn, văn hóa Hàn, showbiz Hàn Quốc các bạn nhé. Cám ơn quý vị và các bạn đã theo dõi bài viết, hẹn gặp lại các bạn ở các bài viết sau nhé.